Nhắc đến xe máy Sài Gòn trước 1975, người dân miền Nam trước đây hẳn không ai xa lạ với cái tên Mobylette. Do Việt Nam từng là thuộc địa của Pháp, những chiếc xe này xuất hiện khá phổ biến trên đường phố. Dù được sản xuất bởi hãng Motobécane, cái tên Mobylette vẫn được người dân biết đến nhiều hơn.
“Mobylette là một kiểu xe đạp gắn máy do công ty Motobécane của Pháp sản xuất.
Xe Mobylette xuất hiện trên thị trường bắt đàu từ năm 1949 và được sản xuất tới tận năm 1997 với số lượng vượt quá 14 triệu đơn vị. Thập niên 1970 là thời kỳ đạt số lượng xe cao nhất, tính bình quân là khoảng 750,000 chiếc/năm.” _ Nguồn: Wikipedia – Mobylette.
Ở Việt Nam, Mobylette có hai loại chính là Mobylette vàng và Mobylette xanh. Cả hai đều được trang bị động cơ 49,99cc, nằm trong phân loại vélomoteur, không yêu cầu bằng lái. Mobylette vàng nhỏ gọn, chỉ có giảm xóc phía trước, còn Mobylette xanh lớn hơn, nặng hơn, được trang bị giảm xóc ở cả bánh trước và sau, mang lại cảm giác lái êm ái hơn và có giá thành cao hơn.
Xe Mobylette dường như ít thay đổi qua nhiều năm, trong những năm 1950, khung xe được làm từ các ống thép hàn lại với nhau đến 1960, khung xe chuyển sang làm bằng tôn ép. Màu sắc của xe cũng không thay đổi nhiều, chỉ có một giai đoạn Mobylette vàng được thay bằng Mobylette xám. Xe Mobylette được thiết kế đơn giản, dễ sử dụng, xe không cần phải chuyển số mà sử dụng hệ thống embrayage automatique (dây ga tự động), chỉ cần vặn ga lớn để tăng tốc và giảm ga để giảm tốc và dừng lại. Để khởi động, chỉ cần đạp nhanh là xe nổ máy. Nếu xe không nổ máy, có thể dùng cần gạt để tách động cơ khỏi bánh sau và đạp bộ về nhà.
VÉLOSOLEX SÀNH ĐIỆU GIỮA PHỐ
Nếu bạn từng đạp xe và tự hỏi tại sao không gắn một động cơ nhỏ lên xe đạp để khỏi phải đạp thì ý tưởng này đã được hiện thực hóa qua chiếc Vélosolex. Xe Vélosolex là một chiếc xe đạp có động cơ gắn trên bánh trước. Động cơ này làm quay một bánh đá tròn phía dưới, khi người lái kéo cần điều khiển trước mặt, bánh đá sẽ nâng lên khỏi bánh trước và xe có thể được đạp như xe đạp thông thường.
Khi đạp đến một tốc độ nhất định, hạ cần điều khiển xuống, tốc độ của xe sẽ kích hoạt động cơ và động cơ sẽ kéo xe bằng bánh trước. Xe đã chạy ổn định, người lái có thể đặt chân lên miếng để chân nhỏ ở giữa xe và ngồi thoải mái. Ý tưởng đơn giản này đã xuất hiện vào giữa thế kỷ 20 và xe Vélosolex vẫn tồn tại đến đầu thế kỷ 21.
VESPA, LAMBRETTA – PHONG CÁCH LỊCH LÃM TỪ Ý
Ở phân khúc cao hơn là các dòng xe Scooter của Ý như Vespa và Lambretta. Những chiếc Scooter này có dung tích động cơ lớn hơn 50cc, thường là 125cc, 150cc hoặc 200cc, tùy theo mẫu xe. Vì vậy, chúng không được xếp vào loại vélomoteur. Người lái phải trên 18 tuổi và có bằng lái xe. Do đó, người sử dụng xe Vespa và Lambretta thường là những người trung niên, có cuộc sống khá giả, vì các dòng xe scooter này thường có giá thành cao hơn.
Xe Vespa đã tồn tại hàng chục năm nhưng không thay đổi nhiều. Khung xe được làm từ tôn ép, có thiết kế hình tròn như quả trứng để tăng khả năng chịu lực. Động cơ được đặt ở phần phình ra bên phải, còn bên trái là ngăn chứa đồ. Vì vậy, khi chạy, xe Vespa thường nghiêng về bên phải do trọng lượng không đều.
Ngắm nhìn những chiếc Vespa trên đường phố Sài Gòn:
Tương tự như Vespa, xe Lambretta mặc dù có vẻ ngoài tương đồng nhưng cấu trúc lại hoàn toàn khác biệt. Khung xe được làm từ các ống sắt hàn lại, động cơ đặt ở giữa khung và được bọc bởi lớp vỏ sắt. Trong những năm đầu thập niên 1960, Lambretta có thiết kế với các đường cong mềm mại. Vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, kiểu dáng của xe chuyển sang phong cách thẳng, phù hợp với xu hướng thời bấy giờ, tạo nên vẻ thanh nhã. Cả hai dòng xe đều sử dụng cơ chế sang số bằng tay, với cần gạt embrayage và vặn để chuyển số.
GOEBEL, SACHS, PUCH – CÔNG NGHỆ ĐỨC BỀN BỈ
Từ cuối thập niên 1950 miền Nam Việt Nam đã nhập khẩu các dòng xe gắn máy từ Đức như Goebel, Sachs và Puch. Những chiếc xe này có điểm chung là bình xăng đặt trước người lái, hệ thống sang số bằng tay, và được trang bị giảm xóc ở cả bánh trước và sau. Động cơ của các xe này đều là 50cc, thuộc loại vélomoteur, nên không yêu cầu bằng lái khi sử dụng.
Mỗi dòng xe lại có những nét đặc trưng riêng, chẳng hạn như động cơ của xe Puch luôn được bọc trong lớp vỏ nhôm và có hệ thống quạt làm mát. Điều này giúp động cơ luôn mát ngay cả khi dừng đèn đỏ. Dù chỉ có động cơ 50cc, nhưng nhờ có hệ thống số, xe gắn máy Đức có lực kéo mạnh ở số 1 và 2, do đó thường được sử dụng để kéo xe lôi, chở thêm bốn đến năm hành khách và hàng hóa phía sau. Hiện nay, các hãng Puch và Sachs vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển.
HONDA 67, CUB, DAME HUYỀN THOẠI
Khoảng năm 1965 cái tên Honda bắt đầu xuất hiện với nhiều mẫu xe mới lạ. Ban đầu, một số xe Honda được người Mỹ mang sang Việt Nam để sử dụng trong công việc. Khi họ trở về nước, những chiếc xe này được bán lại và người Việt đã có cơ hội sở hữu.
Một trong những ứng dụng phổ biến của xe Honda là được các phi công Mỹ sử dụng để di chuyển giữa nơi đậu máy bay và doanh trại. Khoảng cách giữa hai nơi này thường khá xa, nếu đi bộ có thể mất vài phút đến vài chục phút. Với xe Honda, các phi công có thể rút ngắn thời gian di chuyển, đặc biệt là trong trường hợp khẩn cấp, xe Honda giúp họ đến máy bay nhanh hơn so với đi bộ. Trong số các mẫu xe Honda trước năm 1965, Honda S90 có lẽ là chiếc được ưa chuộng nhất nhờ thiết kế đẹp, động cơ mạnh mẽ và âm thanh nổ giòn.
Các kiểu xe khác là C110, S65 (thường được gọi là S50), P50, C50. Xe P50 có cấu tạo đặc biệt với máy nằm ở sát bánh sau và truyền động thẳng vào bánh chứ không qua dây xích. Cách đặt máy này có lợi là khỏi bị mất lực khi truyền qua dây xích và giảm bớt số bộ phận nhưng có khuyết điểm là xe dễ bị mất thăng bằng vì đầu nhẹ, đuôi nặng. Lại thêm khi đi xuống ổ gà vì không có ống nhún nên sức va chạm có thể làm vỡ răng cưa ở vành bánh xe. Xe Honda Dame C50 trước 1965 có chiếc đã có bộ đề bằng điện, khỏi cần đạp. Trong khi chiếc Honda Dame nhập cảng hàng loạt sau này phải đạp máy nổ bằng chân.
Năm 1965 xe Honda Dame chính thức được nhập khẩu và bán cho người tiêu dùng tại Việt Nam. Mặc dù hãng gọi là kiểu C50, nhưng người dân thường gọi là Honda Dame. Những chiếc xe Honda Dame đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn với màu đỏ hoặc xanh lá cây nhạt, thu hút sự chú ý của nhiều người. Với hệ thống ambrayage tự động, người lái không cần bóp ambrayage tay khi sang số, chỉ cần giảm ga.
Các mẫu xe khác như Suzuki Dame và Yamaha Dame cũng có tính năng tương tự.
Các mẫu xe máy Nhật Bản kiểu “đàn ông” được thiết kế giống môtô phân khối lớn với cần đạp nổ máy, thanh ngang để chân, và các chi tiết như bình xăng phía trước, miếng cao su đệm đầu gối, giúp việc lái xe thoải mái hơn. Đặc biệt, các dòng xe này có yên thấp, phù hợp với người châu Á, cùng tay ga nhẹ nhàng, dễ sử dụng.
Sau Honda Dame, mẫu xe Honda 66 (SS50) xuất hiện vào năm 1966, với màu đỏ hoặc đen, tay lái ngắn, không có đèn xi-nhan, hộp số năm số và tốc độ tối đa 90km/giờ. Đây là mẫu xe được thiết kế với đặc tính xe đua, nhưng không phù hợp lắm khi di chuyển trong thành phố do tay lái ngắn.
Năm 1967 Honda cải tiến mẫu xe với tay lái rộng hơn, hộp số năm số, sơn màu đen hoặc đỏ, có đèn xi-nhan và ống nhún trước bọc cao su, tốc độ tối đa 80km/giờ. Mẫu xe Honda 67 (SS50E) trở thành huyền thoại với động cơ mạnh, tốc độ cao, và được ưa chuộng nhất tại miền Nam.
Chiếc Honda 67 còn được sử dụng để kéo xe lôi, thay thế cho các dòng xe Đức trước đó.
Một số hình ảnh xe máy Sài Gòn trước 1975 khác:
Khi nhớ lại những kỷ niệm về chiếc xe máy đầu tiên của Sài Gòn người ta không thể không cảm thấy một chút hoài niệm. Đó không chỉ là phương tiện di chuyển, mà còn là biểu tượng của một thời kỳ và phong cách sống đặc biệt, gắn liền với bao kỷ niệm vui buồn.